Dạy trẻ phương pháp tư duy

5. Dạy trẻ phương pháp tư duy

Để trẻ thông minh, linh hoạt trí óc, chúng ta phải luôn luôn tạo điều kiện cho trẻ được tư duy, được tiếp cận với những vấn đề "cận động não". Trí não nếu không hoạt động sẽ khô cứng như "một cố máy không được dầu bôi trơn".

"Làm thế nào để tạo được các cơ hội tư duy cho con trẻ" là vấn đề mà Giáo sư Hirakv rất chú tâm nghiên cứu.

Theo Giáo sư Hirakv, bộ não của con người có khả năng rất tuyệt vời, nó mang bên trong mình "những tổ chức tư duy ở dạng nén". Chẳng hạn, nếu như hôm nay ta gặp một công việc giống như việc hôm qua ta đã thực hiện rất hoàn hảo. Khi đó, không cần tới sự "động não", chúng ta sẽ "theo mẫu" của cách làm ngày hôm qua để thực hiện lại công việc mà vẫn thu được kết quả thành công. Mô hình hoạt động của não bộ như vậy được coi là "một tổ chức tư duy dạng nén". Với vô vàn hoạt động của cuộc sống hằng ngày, có thể thấy não bộ đã lưu giữ rất nhiều "tổ chức tư duy dạng nén" vô cùng hữu ích cho chúng ta. Nếu như không có các tổ chức tư duy dạng nén, với bất kỳ hoạt động nào (từ việc đánh răng, ăn cơm hay các hoạt động phức tạp hơn), chúng ta luôn phải tư duy từ điểm khởi đầu đến điểm kết thúc công việc, tình trạng như vậy chắc chắn sẽ quá tải đối với sức chịu đựng của não bộ. Nhờ các tổ chức tư duy dạng nén, chúng ta không mất quá nhiều tinh lực cho các hoạt động mang tính chất "thói quen". Trí lực được tập trung để xử trí các sự việc mới, các tình huống lạ. Với cơ chế điều hòa như vậy, chúng ta mới có thể duy trì mọi hoạt động tư duy.

Tuy nhiên, cơ chế hình thành các tổ chức tư duy dạng nén cũng tiềm tàng một nguy hại, đó là căn bệnh "làm việc theo quán tính". Khía cạnh cực đoan của kiểu hoạt động trí não theo thói quen - quán tính chính là đẩy tư duy đến chỗ khô cứng, bị cơ giới hóa và nhiều khả năng đưa tới sự lão hóa của não bộ.

Theo kết quả nghiên cứu tình hình phát triển trí lực của trẻ em từ giai đoạn đầu đến trưởng thành của một nhà tâm lý học người Mỹ, chúng ta được biết sự phát triển trí lực của trẻ từ 0 đến 4 tuổi mang tính chất quyết định nhất đối với cả thời kỳ phát triển trí lực đến năm 18 tuổi. Điều này có nghĩa là chất lượng phát triển trí lực tăng mạnh trong giai đoạn từ 0 đến 4 tuổi, sau đó duy trì tốc độ phát triển tăng dần đến đỉnh điểm ở tuổi 18. Nếu không đạt được bước phát triển mạnh trong thời kỳ từ 0 đến 4 tuổi thì đến năm 18 tuổi, tuy trẻ vẫn đạt được đỉnh điểm của sự phát triển mạnh mẽ của trí lực trong giai đoạn trẻ từ 0 đến 4 tuổi là hết sức cần thiết. Biện pháp cơ bản lả tạo mọi điều kiện, bằng mọi phương cách đem đến cho trẻ những cơ hội tư duy.

Trước hết, bố mẹ cần giúp trẻ nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tư duy, việc "tự động não". Thay vì ép buộc trẻ học chữ, bố mẹ hãy đặt cho trẻ những mục tiêu cụ thểm chẳng hạn, khi biết chữ, con có thể tự đọc truyện, tự xem các tên chương trình trên truyền hình... Trẻ chỉ thực hiện công việc khi đã thực sự nhận thức được mục tiễn của việc cần làm.

Đối với những công việc đơn giản và quen thuộc người ta sẽ làm theo thói quen - khi đó phương pháp tư duy mang tính chất quán tính.Nhưng khi gặp một vấn đề chỉ dựa vào thói quen, lúc đó phương pháp tư duy cũng bị phá vỡ, chúng ta bắt buộc phải tìm kiếm một phương thức tư duy mới phù hợp và hiệu quả hơn. Thêm vào đó, khi tiến hành thực hiện các công việc đơn giản và theo thói quen, vì  lượng trí lực bỏ ra... không lớn nên chúng ta sẽ không xác định được tất cả năng lực tư duy trí lực của bản thân.Ngược lại, đối mặt với một công việc phức tạp, để xử lý chúng ta buộc phải vận động toàn bộ năng lực tư duy, trí lực vốn có. Khi đó, chúng ta không những có điều kiện xác định tổng thể "tình hình năng lực trí lực bản thân" mà còn dễ dàng phát hiện những nhược điểm để có thể kịp thời bổ trợ.

Để hiểu rõ lý luận này, chúng ta theo dõi ví dụ sau:

Một lớp tiểu học đưa các em nhỏ tới siêu thị để "tập" mua hàng. Yêu cầu đặt ra là mỗi em chỉ được mang theo 50 yên Nhật. Các em phải tận dụng tối đa khả năng, dùng số tiền này mua thật nhiều đồ dùng cần thiết. Bình thường, với 50 yên Nhật, việc mua được một thanh kẹo sô - cô la cũng khó thực hiện. Khi được giao nhiệm vụ cầm theo 50 yên Nhật để mua hàng trong siêu thị, nhiều em nhỏ tỏ ra rất lúng túng. Thế nhưng trên thựctế, hầu hết các em nhỏ đều hoàn thành nhiệm vụ của mình sau mấy tiếng đồng hồ tự xoay sở trong siêu thị.

Ví dụ trên cho thấy những tình huống khó khăn có thể tạo ra động cơ thúc đẩy sự nhanh nhẹn, linh hoạt của tư duy, suy nghĩ.Vì vậy,Giáo sư Hirakv luôn có lời khuyên với các bậc cha mẹ, khi con cái gặp khó khăn, đừng vội "giơ tay gúp đỡ". Đối với con trẻ, những hoàn cảnh khó khăn là cơ hội rèn luyện tư duy tuyệt vời.

Lời huyên này không có ý nghĩa đặt bố mẹ trở thành những "nhân vật bàng quan" với mọi hoạt động của con cái. Điều các ông bố bà mẹ cần ghi nhớ nhất là chỉ giúp đỡ con trẻ khi thực sự cần thiết. Chẳng hạn, trẻ bị ngã khi đang đi, các bà mẹ ở Mỹ hoặc Châu Âu chỉ lên tiếng động viện, khuyến khịc trẻ đứng dậy, sau đó im lặng nhìn bọn trẻ tự đứng dậy. Giáo sư Hirakv nhận xét, trong những trường hợp như thế, bố mẹ sẽ phạm sai lầm nếy lập tức chạy lại và đỡ con mình đứng dậy!

Về phương pháp phát triển năng lực tư duy trẻ em, Giáo sư Hirakv ủng hộ những đề xuất của Tiến sĩ Edward - một nhà giáo dục học, một triết gia thế kỷ XIX. Theo phương pháp của Tiến sĩ Edeward, quá trình dạy trẻ nắm bắt tên gọi của các đồ vật có thể bao gồm ba giai đoạn.

Chẳng hạn, ban đầu đưa cho trẻ xem mấy loại bút như bút máy, bút bi và bút chì, chúng ta chỉ vào chiếc bút máy và nói với trẻ: "Đây là bút máy". Bước tiếp theo, chúng ta đặt trước mặt trẻ cả ba loại bút và đặt câu hỏi: "Đâu là bút máy?" và để trẻ tự nhặt ra đúng chiếc bút máy. Bước cuối cùng là cầm bút  máy lên và hỏi trẻ: "Đây là cái gì?". Với việc đưa ra các dẫn dắt theo thứ tự "đây là...", " cái nào là...", " Cái này là gì" như trên được gọi là phương pháp rèn luyện năng lực tư duy "ba giai đoạn" đối với trẻ em.

Một số người có hỏi Giáo sư  Hirakv về vấn đề đến lứa tuổi nào thì có thể dạy trẻ học chữ và làm toán. Họ thắc mắc với ông như sau: "Chúng tôi thấy đứa trẻ bên hàng xóm mới bốn tuổi đã có thể nhớ được mặt chữ cái, thé mà không hiểu sao con tôi cũng bằng tuổi ấy mà không được như thế? Liệu có phải trí tuệ của con tôi có năng lực thấp hay không?". Nghe những thắc mắc này, Giáo sư Hirakv chợt nhận ra rằng rất  nhiều ông bố bà mẹ cũng không thật hiểu biết về  con cái mình.

Tốc độ phát triển trí tuệ của mỗi em nhỏ không hoàn toàn giống nhau. Có em bé độ hơn một tuổi nhưng nói năng khá trôi chảy, trong khi em nhỏ khác đến năm tuổi vãn chưa nói được rành rọt. Sự khácbiệt này là do tốc độ phát triển năng lực nói nhanh hay chậm ở từng em nhỏ. Như vậy, trong việc giáo dục trẻ em, điều đáng chú ý ban đầu là vấn đề tốc độ phát triển của các năng lực (không phải ở vấn đề trí tuệ của mỗi đứa trẻ có phẩm chất thông minh hay không) Đối với con nhỏ, bố mẹ nên hiểu rằng không có cái gọi là "sự thích hợp về thời gian" bắt đầu dạy cho con cái học hành một kiến thức nào đó. Điều quan trọng là trẻ có hứng thú hay không với kiến thức được học. Khi trẻ yêu thích và hứng thú, đó là lúc bắt đầu tốt nhất của sự học tập!

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tên sách: Phương pháp giáo dục thực tiễn của Hirakv
  • Tác giả: Hirakv
  • Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Tư pháp, 2006